Skip to main content

VỀ NGHỆ THUẬT VIẾT: Ý THỨC VỀ SỰ HIỆN DIỆN CỦA KẺ KHÁC VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ LÊN CÁCH VIẾT

Viết, giống như trò chuyện, về cơ bản đều là sự truyền đạt thông tin giữa ta và người. Bởi có kẻ khác ta ấy mà nảy sinh ra nhu cầu để nói ra, và cũng chính sự có mặt của kẻ khác ảnh hưởng quyết định lên cách ta nói, hay viết. Có ba cấp độ giao tiếp mà mỗi cấp độ cần một cách nói riêng: nói cho chính mình, nói cho một nhóm người, và nói cho một toàn thể rộng lớn không xác định. 


Sự khác biệt đầu tiên nằm ở cách xưng hô. Nói cho chính mình, ta có thể loại bỏ hoàn toàn chủ thể “tôi” ra khỏi văn bản, bởi khi đó, ta chính là kẻ đang chứng kiến cái ta viết rồi. Ví dụ một đoạn nhật ký sau: 


Đêm tháng sáu, nằm nghe những bản nhạc không lời tuyệt vời của Chad Lawson. Một sự tình cờ gặp gỡ; trái tim dạt dào ngây ngất. Tựa như, nhưng sâu hơn âm nhạc của Yiruma hay Kevin Kern. Hình dung ra mình đang ngồi trong một tòa biệt thự cổ vào một buổi sớm thu. Nắng vàng nhẹ hắt bóng qua ô cửa sổ. Ngoài kia là hồ nước mênh mông và mặt đất ngập màu xanh non của cỏ. Nhắm mắt lại, tận hưởng phút giây dịu êm. Quá khứ đã lùi xa, trút bỏ những gánh nặng, trở về sống thật với lòng mình, tự nhiên và yên vui.” 


Không có ai khác ngoài chủ thể “tôi” ở đây, vì thế, cũng không cần nhắc tới bản thân. Ta biết điều ta đang viết ra là nói tới chính mình. Ai đang nhắm mắt lại, tận hưởng những phút giây? Là ta. 


Bây giờ, ta thử viết cũng trải nghiệm trên, nhưng trong bối cảnh đang nói chuyện với một người hoặc nhóm người nào đó. Không chỉ cách xưng hô, mà cả nội dung và cách thức cũng sẽ phải khác đi. 


Gần tới nửa đêm, tôi nằm thật yên trong căn phòng riêng, thả hồn trôi theo những bản nhạc piano tuyệt vời của Chad Lawson. Bốn năm sống trong căng thẳng, cuối cùng tôi cũng biết mình sai ở đâu. Lâu lắm rồi tôi mới được nghỉ ngơi trọn vẹn; nghĩ tới những ngày tháng dịu êm phía trước lòng tôi tràn ngập niềm hạnh phúc.” 


Có thể thấy trong đoạn văn thứ hai, cảm xúc đã được tiết chế hơn và cách hành văn logic hơn. Đoạn văn đầu, ta có thể nói ra trải nghiệm của bản thân theo một cách rất mơ hồ: “trút bỏ gánh nặng, trở về sống thật lòng mình, tận hưởng phút giây êm đềm”. Cách viết này trong bối cảnh độc thoại là hợp lý bởi vì khi đó ta đã tự biết cụ thể mình đang ra sao, cái nói ra chẳng cần chi tiết, một vài nét phác họa là đủ để tóm được cái ý tứ kia. Nhưng trong bối cảnh đang viết cho người khác đọc ta buộc phải tập trung hơn, dùng cách diễn đạt khác thì mới có thể đạt tới cái mục đích. 


Thử chuyển sang cái bối cảnh rộng lớn không xác định, ta sẽ thấy còn khác biệt nhiều nữa. Những trải nghiệm cá nhân vẫn có mặt, nhưng đã khác đi: chúng tan biến vào những tri thức mang tính phổ quát. Hãy xem đoạn văn sau:


Sau bao năm, tôi cũng tìm lại được niềm hạnh phúc trong mình. Ngay khi tôi hiểu ra đã sai ở đâu và sống theo lẽ phải, cõi lòng tôi tự nhiên được yên vui. Dạy học, mục đích sau cùng đâu phải là giúp học trò đạt điểm số thật cao.Tôi không hiểu lẽ đó, nên cứ mù quáng cố gắng vì trò, để rồi đánh mất mình. Động cơ sai, dẫn tới hành động sai, và vì thế mà đau khổ. Cho tới khi tinh thần hoàn toàn kiệt quệ, nhìn lại tôi mới thấy bản thân đã từ bao giờ chẳng còn bất kì niềm vui và hứng thú nào, ngày ngày giảng dạy nhưng chỉ như một cỗ máy vô tri.” 


Ở đây, ta thấy những trải nghiệm có tính nhất thời đã nhường chỗ cho những diễn tả tổng quan; sự lý giải trở nên quan trọng và thiết yếu. Khi ta hướng mình tới toàn thể, trường nghĩa của ngôn ngữ ta nói dường như cũng trở nên phổ quát: nói chuyện của ta mà như nói câu chuyện chung của tất cả. 


Trong sự tự đối thoại, viết, ta không cố làm rõ điều gì, con chữ chỉ như một sợi dây mỏng manh nối kết ta với chiều sâu thẳm của kinh nghiệm. Không cần một trật tự nào, mọi thứ viết ra ngẫu hứng, rời rạc, giản lược; gợi mở thay vì diễn giải. Trong sự đối diện với đám đông, ta lại viết như thể đang kể một câu chuyện. Cũng là những kinh nghiệm ấy, nhưng ta chọn lọc, tổ chức, sắp xếp sao cho có trọng điểm và diễn giải phù hợp, vì người khác đâu có cái trải nghiệm như ta. Cuối cùng, ta chuyển mình sang tâm thế trò chuyện với toàn thể, nơi đây dường như ta không còn đối diện với một con người cụ thể nữa: chỉ có ta và sự thật. Ở cấp độ này, trải nghiệm riêng trong ta trở thành một phần của sự thật khách quan, cái riêng hòa nhập vào cái chung, cái bề mặt hòa nhập vào cái cốt lõi. Ở cấp độ đầu tiên, chỉ có ta. Ở cấp độ thứ hai, ta dự phần vào với mọi người nhưng ta vẫn là cái ta riêng biệt. Ở cấp độ cuối cùng, ta và mọi người trở thành một cái TA hợp nhất. 


Comments

Popular posts from this blog

DẠY HỌC: BIẾT NÓI LỜI TỪ CHỐI

Năm học này, tôi làm các bài kiểm tra đánh giá chất lượng đầu vào, nhất định không nhận dạy các học sinh quá kém. Trong thực tế giảng dạy, tôi đã gặp không ít các trường hợp học sinh gần như không biết gì cả. Có học sinh lớp 6 không thuộc bảng cửu chương, có học sinh lớp 9 không biết rút gọn đa thức,...Trước thấy thương các em kém quá mà cả nể nhận dạy, nhưng sau cùng các em hoặc tiến bộ quá chậm, đi thi vẫn cứ quanh quẩn điểm hai, ba hoặc không thì phụ huynh lại cho nghỉ học giữa chừng. Dạy hoài công mà tôi còn tự chuốc thêm bao mệt mỏi. Đối với các học sinh mà đầu óc “trắng xoá" như thế, tôi buộc phải dạy một chương trình riêng. Nhưng bây giờ, mở thêm lớp dạy thêm mình các em thì tôi không có đủ thời gian, và cũng chẳng biết phải lấy học phí như nào. Còn dạy chung các em với các bạn khác thì tôi vừa phải dạy cho lớp, vừa phải tách các em riêng ra để dạy bài tập cơ bản. Giá như sức học các em tốt chút thì chẳng nói, đằng này do tiếp thu chậm, cứ học hôm trước hôm sau quên, cộng t...

ĐỌC SÁCH: "VIỆT NAM THỜI PHÁP ĐÔ HỘ" - NGUYỄN THẾ ANH

  Cũng nhiều lần đọc sách sử, nhưng dường như lần nào cũng thấy rất mơ hồ, không tìm được cảm giác thích thú. Với cuốn “Việt Nam thời Pháp đô hộ" của Nguyễn Thế Anh này, muốn thêm một lần thử sức xem sao? Sau khi đọc qua hết toàn bộ cuốn sách và có được cảm nhận chung ban đầu, quyết định chỉ đọc kỹ và viết về Chương III của Phần Hai: Các sự biến đổi xã hội. Tập trung để không bị quá tải.  Đây là lần đọc nghiêm túc nhất từ trước tới nay. Kiên nhẫn và dành nhiều thời gian để suy nghĩ.  Vậy nhưng, thấy gì? Vẫn như mọi lần: lạc lối. Dù chỉ hơn 30 trang sách.  Có lẽ như này: nhiều luận điểm được trình bày, nhưng theo kiểu chắp nối lại chứ không có một sự tổ chức và giải thích đủ sâu để ta thấy được ý nghĩa cùng tầm quan trọng của chúng. Sự lan man này của các luận điểm vô hình chung đã tạo ra rào cản lớn với việc tiếp nhận các sử liệu. Nói gọn lại: không có mạch tư duy sáng rõ dẫn lối, con chữ trở nên tăm tối.  * Một hướng tiếp cận: tách tất cả sử liệu ra khỏi sự rối...

TRÒ CHUYỆN: SƯ MINH TUỆ TRONG TÔI

Tôi ấn tượng nhất về sự chân thành toát ra từ sư Minh Tuệ. Sư có phải thực sự một thánh nhân hay không, chưa ai có thể chắc chắn, nhưng khó ai có thể không nhìn ra sự giản dị và trung thực trong từng cử chỉ, lời nói của sư. Đôi mắt ấy của sư ngay khi nhìn vào trong tôi đã nảy sinh ngay một sự cảm mến và tin cậy. Nhờ truyền thông đại chúng mà những người dân Việt Nam như tôi, và cả người dân trên khắp thế giới đã biết đến sư. Mười ba hạnh đầu đà sư nghiêm trì đã khiến lòng người cảm động. Đức hạnh của sư như một tấm gương để chúng sinh nhìn vào học tập, đồng thời trở thành một tiêu chuẩn để phân định đâu mới thực sự là một tu sĩ Phật giáo chân chính. Đến cả tính mạng sư cũng đã không còn vướng bận chứ đừng nói gì tới tiền bạc hay danh vọng. Liệu con đường tu hành khổ hạnh như thế có thật sự dẫn tới sự chứng ngộ chấm dứt mọi khổ đau? Câu hỏi đó ta hãy tạm gác sang bên mà dành một sự kính ngưỡng trước nghị lực phi thường của sư suốt 6 năm tu hành trong cô độc. Tuy nhiên cũng có rất nhiều ...